Cây Luồng là một giống tre của Việt Nam với tên khoa học Dendrocalamus membranaceus Munro. Cây Luồng có kích thước lớn, không gai, lá nhỏ, mọc cụm. Thân ngầm dạng củ, thưa cây, thân khí sinh có ngọn cong ngắn. Để hiểu rõ hơn về những đặc tính của loài cây này, kính mời quý bạn đọc xem các phần bên dưới của bài viết.
Đặc điểm nhận biết Tre Luồng
Thân
Kích thước của cây Luồng trung bình: Thân tre cao từ 14m, ngọn cong 1m, đường kính thân 10cm. Lóng dài 30cm, vách thân dày 1cm, thân tre tươi nặng 37kg. Thân cây mập, độ thon ít, thẳng, tròn đều, 2/3 thân tre về phía gốc tròn đều. Vòng đốt không nổi rõ, 2-3 đốt cuối cùng có ít rễ mọc dài ra. 1/3 thân tre về phía ngọn mang cành lá, thân có vết lõm nông, nơi quang trống thì cành có thể xuống gần gốc. Mỗi đốt có một cành chính to, dài và 2-5 cành nhỏ hơn. Gốc cành chính phình to (gọi là đùi gà) có khả năng phát triển thành mầm và rễ. Chét là các cành ở sát mặt đất giữa phần gốc thân khí sinh và phần củ thân ngầm.
Xem thêm: Địa chỉ bán tre luồng tươi khô giá rẻ tại TP.HCM
Lá
Phiến lá thuôn hình mũi giáo, dài 18cm rộng 1,5cm hai mép có răng sắc rất nhỏ nhô ra bên ngoài, đầu nhọn đuôi hình nêm hay gần tù. Lá khi non màu xanh thẫm, mềm mại. Khi già màu xanh nhạt có các chấm nhỏ màu gỉ sắt trên bề mặt lá. Bẹ mo của Luồng có hình chuông, đáy trên 10cm đáy dưới 30cm, cao 37cm. Lúc non 1/2 phía trên màu vàng đỏ, 1/2 phía dưới màu vàng xanh; mặt ngoài có nhiều lông màu tím nâu hoặc hung đen. Tai mo phát triển và có rất nhiều lông màu nâu xếp trên lá mặt lá mo.
Mo
Lá mo hình mũi giáo, có lông cả 2 mặt, hơi lật ngửa – cụp về phía ngoài lá mo. Mo sớm rụng, khi cây măng tỏa đuôi én thì mo trên thân cũng rụng theo đó. Măng ở giai đoạn thấp có màu tím nâu, lên cao có màu tím hồng hay tím đỏ. Lên cao hơn nữa có màu tím da cam hay đỏ hồng. Khi cây măng vượt ra ánh sáng sẽ có màu xanh vàng hay xanh xám nhạt.
Hoa
Hoa tự cành nhiều chùy, những bông chét tập hợp thành cụm thành hình cầu ở các đốt của trục hoa tự. Bông chét hình trái xoan nhọn, trung bình có chiều dài từ 10mm và rộng 4mm
Đặc tính sinh học, sinh thái học
Điều kiện tự nhiên:
Vùng phân bố chủ yếu của cây Luồng có khí hậu nóng, ẩm, một năm có hai mùa: mùa nắng nóng, mưa nhiều, thường từ tháng 4-5 đến tháng 10-11 lượng mưa chiếm tới 70 – 80% lượng mưa cả năm. Mùa lạnh, mưa ít, thường từ tháng 11-12 đến tháng 3-4 năm sau lượng mưa chỉ có khoảng 20-30% lượng mưa cả năm. Nhiệt độ bình quân của năm trong khoảng 23-24 độ C, nhiệt độ tối đa có khi lên đến 42 độ C. Độ ẩm trong không khí 87%, lượng mưa 1600-2000mm/năm và lượng nước bốc hơi hàng năm khoảng 677mm.
Địa hình là đồi núi, có độ dốc vừa phải (dưới 300) cao dưới 800m so với mặt biển. Nơi đất bằng, chân đồi hoặc sườn thoải thì Luồng phát triển sẽ tốt hơn.
Đất feralit phát triển trên đá Poocphia, đá vôi, phiến thạch, phyllit hoặc phù sa cổ, có độ sâu 50 – 150 cm hoặc hơn. Thành phần cơ giới thường là sét pha nặng đến sét pha trung bình. Độ ẩm 80-90% độ ẩm lớn nhất ngoài đồng; màu đất thường là vàng hoặc vàng đỏ. PH (H2O) = 4,6-7; hàm lượng P2O5 và K2O dễ tiêu thường nghèo. Hàm lượng chất hữu cơ trong đất thấp sẽ là chất đất rất phù hợp trồng Luồng.
Đặc điểm quần thể, sinh sản, sinh trưởng và phát triển
Chưa gặp rừng Luồng tự nhiên, trong thực tế có thể gặp Luồng trồng sen từng đám trong rừng thứ sinh. Rừng Luồng thuần loại hoặc có xen cây gỗ tập trung thành rừng trên diện tích lớn. Và cũng được trồng phân tán một số khóm xung quanh nhà của các hộ dân.
Những năm mới trồng, khi rừng chưa khép tán có thể trồng xen cây nông nghiệp như lạc, đỗ, ngô, sắn để cung cấp lượng đạm cho đất. Cây gỗ tái sinh tự nhiên tương đối nhiều như: Lim xanh (Erythrophloeum fordii), Sòi tía (Sapium discolor), Mán đỉa (Archidendron clypearia), Hu đay lá hẹp (Trema angustifolia), nhưng tồn tại lâu dài với Luồng chỉ có Lim xanh phát triển tốt.
Mới gặp Luồng ra hoa từng khóm rồi chết và cũng chưa tìm được hạt của cây Luồng. Vì vậy khả năng phát triển rừng Luồng từ hạt là chưa có hiện nay.
Thân ngầm, thân khí sinh, chét và cành là cách thức sinh sản vô tính của cây Luồng. Cây măng sau khi đã định hình, ra cành lá đầy đủ thì các mầm ở gốc bắt đầu phát triển để cho thế hệ măng tiếp theo.
Sinh trưởng của măng Luồng có thể chia thành 3 thời kỳ vòng đời chính:
– Thời kỳ 1: Măng của Luồng phát triển ngầm trong đất. Khoảng từ tháng 9-10 năm trước đến khoảng tháng 4-5 năm sau.
– Thời kỳ 2: Măng mọc khỏi mặt đất và phát triển nhanh về chiều cao. Khoảng từ tháng 4-5 đến tháng 7-8 gọi là mùa ra măng của Luồng.
– Thời kỳ 3: Cây măng phát triển hoàn chỉnh cành, lá và rễ, khoảng từ tháng 7-8 đến tháng 10-11. Sau giai đoạn này là cây măng có thể phát triển độc lập.
Cây Luồng từ 1-2 năm tuổi có thân non màu xanh nhạt, bóng, có ít phấn trắng, các đốt có vòng lông trắng mịn, thịt trắng. Cây Luồng 3-4 năm tuổi là cây vừa, màu xanh sẫm. Cây Luồng 5 tuổi trở lên là cây già, là những cây đạt yêu cầu để khai thác càng già màu da càng xám lại và xuất hiện nhiều rêu mốc, thịt hồng đỏ, rõ bó mạch. Tuổi thọ của cây Luồng vào khoảng 8-10 năm.
Vùng phân bố
Luồng có thể mọc tự nhiên từng cụm phân tán ven sông Mã tỉnh Sơn La. Thanh Hoá là cái nôi Luồng (vì thế quen gọi là “Luồng Thanh Hoá”) nhưng đều là rừng trồng.
Hiện nay Luồng được trồng nhiều ở Bắc Trung Bộ, đã dẫn giống trồng ở nhiều tỉnh phía Bắc và phía Nam. Phong trào trồng Luồng ở vùng Trung tâm Bắc Bộ phát triển rộng khắp. Một số loài tre trước đây thường trồng (Diễn trứng…) phải nhường ngôi!. Giống Luồng đưa vào trồng ở các tỉnh miền Nam. Chưa được kiểm kê tổng kết; một số khóm đã trồng ở Đông Nam Bộ, ở Quảng Trị có nhận xét là sinh trưởng bình thường.
Giá trị sử dụng
Luồng có tỷ lệ Xenlulo là 54% (cao nhất trong các giống tre đã được phân tích), Lignin 22,4%, Pentosan 18,8%. Sợi Luồng thường có chiều dài 2,944mm, chiều rộng 17,84m, vách tế bào dầy 8,5m. Với thành phần cấu tạo và kích thước sợi của Luồng nếu dùng Luồng làm nguyên liệu sản xuất giấy sẽ cho hiệu quả cao và chất lượng giấy tốt.
Luồng có khối lượng thể tích ở độ ẩm 15% là 625 kg/m3 tương đương một số loại gỗ nhóm 7. Nhưng do có cấu tạo và sắp xếp đặc biệt của tế bào sợi dài và những bó mạch (216 bó mạch/cm2). Nên Luồng có giới hạn bền khi nén dọc thớ (ở độ ẩm 15% là 497 kg/cm2 ). Và giới hạn bền khi kéo dọc thớ (ở độ ẩm 15% là 3384 kg/cm2).
Xem thêm: Tìm hiểu về cây vầu đắng.
Ứng dụng
Vi thế Luồng được dùng làm bàn ghế tre, cột chống, xà đỡ trong xây dựng, giao thông vận tải, chèn hầm lò là rất tốt. Luồng dùng làm nguyên liệu sản xuất tấm ván tre ép thì vừa đẹp lại chắc bền. Luồng được nhiều khách hàng ưa chuộng, là mặt hàng xuất khẩu rất có giá trị.
Măng Luồng ăn ngon lại to nên ngoài ăn tươi còn thường được chế biến thành khô măng Luồng cung cấp trên thị trường. Tre Trúc Thái Dương là đơn vị cung cấp cây tre luồng nguyên liệu giá tốt nhất thị trường tại TPHCM.
Kỹ thuật trồng và khai thác Luồng
Kỹ thuật trồng Luồng
Để trồng Luồng thành công đạt hiệu quả cao không thể bỏ qua các bước:
Chọn vùng, địa hình và đất trồng có điều kiện khí hậu, địa hình, lập địa thoả mãn đặc tính sinh học của Luồng.
Cây Luồng ưu độ ẩm ẩm độ trung bình trong năm cao hơn 2%. Lượng bốc hơi lại ít hơn 126,8mm nên nước ta rất thích hợp cho việc trồng rừng Luồng nguyên liệu. Về địa hình thích hợp cho việc trồng Luồng có thể sắp xếp theo thứ tự ưu tiên:
– Đất bằng hoặc chân đồi
– Đồi núi thấp.
– Sườn thoải hoặc yên ngựa
Luồng sinh trưởng từ tốt đến xấu trên các loại đất theo thứ tự sau:
– Đất Feralit nâu đỏ phát triển trên đá Poocphia.
– Đất Feralit đỏ vàng phát triển trên phiến thạch sét biến hình tiếp xúc với Poocphia.
– Đất phát triển trên đá vôi.
– Đất Feralit vàng đỏ phát triển trên phiến thạch Phyllit.
– Đất Feralit nâu vàng phát triển trên phù sa cổ thượng lưu sông Âm.
Phương thức trồng:
Chúng ta muốn trồng Luồng trước tiên thực hiện theo quy trình trồng: qui mô trồng, xử lý thực bì, làm đất, trồng xen phù hợp với sinh thái rừng Luồng.
Luồng có thể trồng phân tán từng khóm gần nhà, xung quanh vườn, bao quanh đồi. . . Thích hợp cho việc tận dụng nơi đất tốt thuận tiện cho chăm sóc, trồng xen có thu nhập thêm cho kinh tế hộ gia đình. Luồng có thể trông tập trung theo phương thức trồng thuần loại, trồng hỗn giao với cây gỗ (cách cây, cách hàng, theo băng, theo đám) cũng rất thích hợp cho người nông dân.
Luồng trồng tập trung thành rừng có ưu điểm:
– Đảm bảo điều kiện ánh sáng, ẩm độ không khí và đất cho Luồng phát triển.
– Tránh gió bão làm gãy măng, trốc gốc.
– Quản lý, chăm sóc thuận tiện.
Kỹ thuật trồng:
Hiện nay có 3 phương pháp nhân giống Luồng. Nhưng có thể nói phương pháp bó bầu (chiết) mang lại hiệu quả cao trồng và chăm sóc cây. Ưu điểm của phương pháp bó bầu (chiết) là:
– Sử dụng tối đa lượng cành có trên cây Luồng.
– Tuổi cành làm giống có biên độ rộng từ 3-10 tháng tuổi.
– Có thể tiến hành quanh năm (nhưng tốt nhất là từ tháng 2 đến tháng 8 dương lịch).
– Cây mẹ sau khi lấy giống vẫn sử dụng bình thường.
– Cây mẹ vẫn ra măng bình thường.
Khai thác Luồng
Sau khi trồng Luồng từ 5-6 năm rừng Luồng có thể đưa vào khai thác. Sau 9-10 năm thì khai thác ổn định kéo dài đến 40 năm mà không phải chăm sóc quá nhiều.
Qui phạm qui định khai thác Luồng:
Luân kỳ 1 năm thì cường độ chặt không quá 30% số cây trong khóm;
Luân kỳ 2 năm thì cường độ chặt dưới 40% số cây trong khóm.
Theo đó chúng tôi cũng có thể áp dụng công thức:
Chu Kỳ 3 năm: chặt cây từ tuổi 4 cho những vùng xung yếu chặt cây từ tuổi 3 cho những vùng sản xuất khác.
Chu Kỳ 2 năm: chặt cây từ tuổi 4 cho những vùng sản xuất khác.
Phòng trừ sâu bệnh và chăm sóc rừng Luồng
Chăm sóc rừng Luồng là một yếu tố quyết định đến sản lượng thu hoạch. Chúng ta cần phòng trừ bệnh bệnh chổi sể và sâu vòi voi hại măng. Luôn chú ý đến việc làm vệ sinh rừng, điều tiết mật độ, xới đất bón phân thì mới đảm bảo cho Luồng tồn tại, sinh trưởng, phát triển tốt.
Kết luận
Luồng là giống cây mang lại nhiều giá trị về kinh tế. Kỹ thuật trồng, chăm sóc và khai thác Luồng đã được nghiên cứu. Và đưa ra “Quy phạm kỹ thuật trồng và khai thác Luồng” mới được ban hành để sản xuất thực hiện nhằm mở rộng vùng trồng nguyên liệu và đẩy mạnh trồng Luồng. Tuy nhiên cũng còn các vấn đề cần được đầu tư, giải quyết tiếp, chắc chắn cây Luồng xứng đáng là cây được ưu tiên trong kế hoạch trồng mới 5 triệu ha rừng của chính phủ đề ra.
Bài viết mới nhất: